Nhà đầu tư và quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư |
Thứ ba, 20 Tháng 11 2012 |
Trước khi ban hành Luật Đầu tư năm 2005, chủ thể của quan hệ đầu tư được quy định không giống nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đối với các quan hệ đầu tư trong nước, chủ thể của quan hệ đầu tư được quy định trong nhiều văn bản pháp luật (Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Luật Hợp tác xã năm 2003, Luật Doanh nghiệp năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành). mua sach truc tuyennha sach minh khainhan chung hoc50 sac thai tap 4sachgiamgiasach tam ly hoctu dien han viet hien dai Theo đó, chủ thể của các quan hệ đầu tư trong nước có phạm vi rất rộng, bao gồm các tổ chức, cá nhân không bị cấm đầu tư vốn để kinh doanh và các cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền. Đối với đầu tư nước ngoài, chủ thể của quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 sửa đổi bổ sung năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Chủ thể của quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có phạm vi hẹp chỉ quy định các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế; bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kĩ thuật, khoa học tự nhiên. Nhà đầu tư nước ngoài (gồm tổ chức kinh tế nước ngoài và cá nhân nước ngoài; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài). Các cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền kí kết BOT, BTO và BT (là các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Theo Luật Đầu tư, chủ thể trong quan hệ pháp luật đầu tư được mở rộng và được quy định thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư được hiểu là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm: - Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật Doanh nghiệp; - Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã; - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này có hiệu lực; - Hộ kinh doanh, cá nhân; - Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; - Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Quy định về nhà đầu tư theo Luật Đầu tư so với Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được mở rộng thể hiện quan điểm không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư thuộc các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế khác nhau, không phân biệt quốc tịch của nhà đầu tư. Đây là cơ sở quan trọng đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư, đáp ứng yêu cầu bảo đảm và khuyến khích đầu tư trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư là nội dung cơ bản của quan hệ pháp luật đầu tư. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư được ghi nhận bởi pháp luật. Trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư, trên cơ sở pháp luật, nhà đầu tư còn có thể ấn định các quyền và nghĩa vụ cho mình, gắn với những quan hệ đầu tư cụ thể. Luật Đầu tư quy định (ở mức độ nguyên tắc) những quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhà đầu tư[1]. Ngoài ra, gắn với từng dự án đầu tư, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tư được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau như: pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, lao động, pháp luật về đất đai, tài nguyên, pháp luật về thuế, pháp luật về quản lí ngoại hối, pháp luật về bảo vệ môi trường... [1] Xem các điều từ Điều 13 đến Điều 20 Luật Đầu tư (2005) |