luật doanh nghiệp dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào phá sản |
Thứ sáu, 19 Tháng 4 2013 |
Để có căn cứ cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Luật Phá sản của các quốc gia phải xác định thế nào là tình trạng phá sản. Theo Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 đã quy định: “ Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, bản chất của tình trạng phá sản là tại một thời điểm nhất định, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Khi đó, các chủ nợ cũng như chính bản thân con nợ dựa vào căn cứ pháp lý này để làm đơn đề nghị Toà án giải quyết vụ việc phá sản. mua sach truc tuyennha sach minh khainhan chung hoc50 sac thai tap 4sachgiamgiasach tam ly hoctu dien han viet hien dai
I. Dấu hiệu xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
1. Dấu hiệu Để có căn cứ cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Luật Phá sản của các quốc gia phải xác định thế nào là tình trạng phá sản. Theo Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 đã quy định: “ Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, bản chất của tình trạng phá sản là tại một thời điểm nhất định, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Khi đó, các chủ nợ cũng như chính bản thân con nợ dựa vào căn cứ pháp lý này để làm đơn đề nghị Toà án giải quyết vụ việc phá sản. 2.Tuỳ theo góc độ xem xét, phá sản được phân thành các loại sau: - Phá sản trung thực và phá sản gian trá: Sự phân biệt này được xem xét dưới góc độ nguyên nhân gây ra tình trạng phá sản. Phá sản trung thực là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những nguyên nhân khách quan. Còn phá sản gian trá là hậu quả của những thủ tục gian trá được tính toán, sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. - Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc: Sự phân biệt này dựa trên căn cứ phát sinh quan hệ pháp lý. Cụ thể là dựa vào căn cứ ai là người nộp đơn yêu cầu phá sản. Phá sản tự nguyện là do bản thân doanh nghiệp mắc nợ tự giác đề nghị khi thấy mình mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Ngược lại, phá sản bắt buộc là do các chủ nợ yêu cầu. - Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân: Sự phân biệt này liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản. Ở nhiều nước không phân biệt phá sản doanh nghiệp hay phá sản cá nhân, nếu lâm vào tình trạng phá sản thì đều áp dụng Luật Phá sản để giải quyết. Luật Phá sản của Việt Nam chỉ áp dụng cho doanh nghiệp và hợp tác xã. Còn nếu cá nhân phá sản thì áp dụng theo thủ tục đòi nợ thông thường (thủ tục dân sự). 3. Phân biệt phá sản với giải thể Nếu chỉ nhìn về hiện tượng thì phá sản và giải thể là giống nhau bởi vì cả hai hiện tượng này đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại. Tuy nhiên, về bản chất pháp lý đây là hai hiện tượng khác nhau: - Thứ nhất, lý do dẫn đến giải thể doanh nghiệp có rất nhiều lý do khác nhau như hết thời hạn hoạt động, chủ doanh nghiệp không muốn kinh doanh nữa hoặc vi phạm pháp luật bị thu hồi giấy phép kinh doanh...Trong khi đó, phá sản chỉ có một lý do duy nhất là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. - Thứ hai, phá sản khác giải thể ở bản chất của hai thủ tục pháp lý giải quyết cũng như thẩm quyền của cơ quan thực hiện thủ tục đó. Thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp do Toà án tiến hành, còn giải thể là thủ tục hành chính do cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền tiến hành. - Thứ ba, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành doanh nghiệp giải thể và phá sản cũng khác nhau. Nếu là phá sản thì chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc người quản lý điều hành doanh nghiệp sẽ bị cấm hành nghề kinh doanh trong một thời gian nhất định. Còn trong trường hợp giải thể thì vấn đề hạn chế này không được đặt ra. Bài cũ hơn:
|